Phùng Thị Vân Anh - Nguyên Chủ tịch HĐQT BIDV•17/11/2025
Cuộc đời tôi có nhiều người Thầy, nhưng tôi nhớ mãi hình bóng thầy Đỗ Trọng Kim từ khi còn là sinh viên cho đến khi làm việc ở Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam.
Tôi là sinh viên khóa II, Trường Đại học Tài chính (1964 - 1969). Lúc đầu trường có khoảng hơn 800 học viên (khóa I, II và chuyên tu). Đến năm 1969 thì tôi ra trường thì đã có đến khóa VI (với gần 2300 học viên). Tôi nghĩ cả 6 khóa này có chung hai đặc điểm: đều đi sơ tán ở Lập Thạch (Vĩnh Phúc) và đều là học trò của thầy Đỗ Trọng Kim - Người thầy, người Hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Tài chính.
Ấntượngđầutiên - chỉvìtêntrườnglà....
Chúng tôi nhập trường với tâm trạng không mấy phấn khởi. Trong khi các trường khác oai phong là Đại học Y Dược, Đại học Bách Khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Kinh tế tài chính gọi tắt là Đại học Kinh tài (nay là Đại học Kinh tế Quốc dân) thì trường lại có một cái tên rất lạ lùng: “Trường Cán bộ Tài chính - Kế toán - Ngân hàng Trung ương” (Mà sau này được sinh viên đọc chệch thành: Trường Cán bộ Tài chén - Khéo tán - Ngang tàng - Ương Ương). Ai cũng mơ hồ, ngại ngùng là Trường Đại học hay Trung cấp nhỉ. Có giai thoại kể về một đàn anh khóa I, ngượng ngùng không biết giải thích với bạn gái, nên nói dối là học Đại học Kinh tài. Thế là tối Chủ nhật, được bạn gái tiễn vào trường, anh bèn dẫn đến Đại học Kinh tài, giả vờ vào trường, đợi bạn gái đi khỏi, mới lặng lẽ lên tàu điện đến Bưởi để về trường mình... Bây giờ nghĩ lại cũng thấy buồn cười, bởi vì lúc đó nhà trường phải vất vả làm công tác tư tưởng cho sinh viên chỉ vì cái tên dài dòng, lạ tai của trường mình.
(ảnh tư liệu nhà trường)
Chúng tôi được gặp thầy Đỗ Trọng Kim lần đầu tiên là hôm khai giảng đón sinh viên mới. Ấn tượng đầu tiên là Thầy cao, gầy, tóc húi cua, bạc trắng, giản dị và giọng nói thủ thỉ ấm áp. Đại ý Thầy nói là “Các em là lớp sinh viên đầu tiên được đào tạo về Tài chính - Kế toán - Ngân hàng một cách bài bản. Đó là một điều may mắn vì thế hệ của các Thầy là vừa làm, vừa tự học, may mắn lắm thì được các chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc trao đổi kinh nghiệm và cho một vài tập tài liệu...”. Thầy còn bảo: “Cán bộ Tài chính - Kế toán là tay hòm chìa khóa của đất nước, của nhân dân... nên phải là cần, kiệm, liêm, chính...”. Thầy nhấn mạnh: “Các em là lớp cán bộ Tài chính - Kế toán - Ngân hàng đầu tiên tiếp nối, thay thế cho lớp cán bộ kháng chiến và còn phải về miền Nam để xây dựng nền Tài chính XHCN nữa, nên trách nhiệm nặng nề lắm đấy”. Rồi Thầy kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về ngành Tài chính non trẻ sau Cách mạng Tháng 8 đã phục vụ cuộc kháng chiến thế nào… Không ai cảm thấy là công tác tư tưởng nặng nề. Những khổ thế, nghe rất thấm thía mà nào có hiểu sâu xa điều tâm huyết của Thầy… Cho đến sau một đời 35 năm công tác gắn bó với ngành nghề, thấu hiểu, tôi mới rưng rưng muốn nói: “Thầy ơi, em hiểu rồi ạ !”. Lúc đó mới hiểu chúng tôi đã làm thầy vất vả với những suy nghĩ bồng bột của mình. Mới hiểu Thầy phải vất vả làm việc với các Bộ thế nào để 4 năm sau, khi nhận tấm bằng tốt nghiệp đỏ chói, dẫu tên Trường vẫn dài dòng thế nhưng đã được in là BẰNG TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC.
Ảnh tư liệu Nhà trường
Ấntượngthứhai - Khoácbalôlênvàđi…
Phải đến tháng 6/1965, khi trường sơ tán lên Lập Thạch, Vĩnh Phúc, chúng tôi mới có dịp tiếp xúc và hiểu về Thầy Đỗ Trọng Kim nhiều hơn. Có thể nói, suốt gần 4 năm sơ tán, cuộc sống của chúng tôi gắn bó chặt chẽ với các Thầy Cô giáo, dưới sự chỉ đạo, chăm sóc chu đáo của Thầy hiệu trưởng. Bây giờ nhớ lại, chúng tôi cũng khó mà tưởng tượng được - Phải di chuyển hàng ngàn người cả Học viên, CBCNV (và gia đình của họ) cùng với toàn bộ đồ đạc, trang thiết bị xa gần trăm cây số trong điều kiện phương tiện giao thông thời chiến… Chỉ có thể đi tàu hỏa, đến ga Tiên Kiên còn đi bộ 22km nữa… Phải lo chỗ ở, chỗ ăn, chỗ tắm, chỗ vệ sinh, chữa bệnh… cho hàng ngàn người và hàng trăm gia đình… mà trong tay nào có công cụ, phương tiện hay tiền vốn… Phải nhanh chóng ổn định cuộc sống (từ cơm áo, gạo, củi, mắm muối, nồi niêu, xoong chảo.. cho hàng ngàn người), lại lo ổn định học tập (từ sách vở, tài liệu, dầu đèn, đến hội trường, bàn ghế, hầm trú ẩn…) mới thấy các Thầy Cô giáo và đặc biệt là Thầy Kim vất vả nhường nào… Lúc đầu tiên là ở nhờ nhà dân, nhưng chỉ 3 tháng sau… với công cụ là dao và dựa, các Thầy Cô giáo cùng với 800 sinh viên… bắt tay vào việc chặt nứa, cắt tranh, đốn tre, chẻ lạt, đan phên, lợp mái… để dựng lán ở cho từng lớp, từng gia đình, cho cơ quan hiệu bộ, làm nhà bếp, đào giếng, dựng hội trường… để ổn định cuộc sống, bắt đầu năm học thứ hai. Hiệu bộ sơ tán ở xóm Đoàn Kết, Khóa I ở Đạo Mội, Khóa II ở Tam Đa (các Khóa sau mở rộng sang Trường Xuân, Quang Huy, Yên Thiết,…) Hội trường ở trên đồi, còn lán trại các lớp ở rừng Xà Cừ….
Thế mới biết các Thầy Cô lo lắng vất vả ra sao. Chúng tôi vẫn nhớ hình ảnh Thầy Hiệu trưởng Đỗ Trọng Kim và thầy hiệu phó Phạm Thế Phiệt có mặt ở khắp nơi, kiểm tra hội trường, nhà ăn, lán trại các lớp đến các lán có sinh viên ốm. Thầy như người chủ gia đình lo cuộc sống, lo công việc, lo an toàn cho hàng ngàn người nơi sơ tán. Và khó khăn là thế, Thầy vẫn cho chở cả thư viện của trường từ Hà Nội lên Lập Thạch. Tôi bé nhất lớp nên được bố trí lao động ở thư viện (sắp xếp, lên thư mục, làm thẻ và cho mượn sách…).
Tác giả thời sinh viên đi sơ tán (năm 1965) được lao động trong Thư viện Nhà trường
Một buổi trưa, Thầy hiệu trưởng ghé qua, thấy tôi vừa ăn cháo sắn vừa đọc sách, Thầy ân cần hỏi chuyện và chợt hỏi “Anh trai em cũng học ở khóa I phải không”. Vâng ạ. Tôi ngại ngùng, ấp úng. Thầy quay về văn phòng và mang cho tôi một cốc nước chanh… Chúng tôi nhớ nhất 2 quyết định quan trọng của Thầy:
Một là, vào cuối năm học thứ 2, nhà trường nhận thấy tình trạng sức khỏe của sinh viên sa sút. Cái lãng mạn ban đầu (Ăn bát chuối xanh nhớ quê nhà // Có ai về nơi ấy xa xa…// Gửi dùm cho mẹ lòng thương mến // Với chút hương nồng của Tam Đa… ) đã bay biến mất… thay vào đó là nóng nực, ăn uống uể oải. Thầy đã quyết định: Chia nhỏ bếp ăn về từng lớp. Mỗi lớp có một bác cấp dưỡng với một kho nhỏ (gạo, muối, dầu mỡ, cá khô…). Bếp ăn nhỏ như một gia đình (như lớp tôi chỉ có 4 mâm) nên dễ quản lý, dễ cải thiện. Bác cấp dưỡng như người mẹ, người chị chăm chút hai bữa ăn, còn có sinh viên hỗ trợ nên thức ăn nóng sốt, ngon hơn, có thêm đĩa cá kho, bát canh sắn, bát chè mật mía, ai ốm thì có bát cháo nóng thêm quả trứng luộc.
Hai là, Thầy yêu cầu và giao chỉ tiêu tăng gia cho các lớp vỡ đất trồng rau, cà, đậu… để bổ sung cho bữa ăn thêm phong phú. Sức khỏe sinh viên được cải thiện rõ rệt. Trên báo tường lại xuất hiện những vần thơ vui tươi (kìa nương ngô, khoai, sắn mướt xanh /Sắc mía vàng tươi mật mát lành /Vườn rau bên suối em vun tưới /Nấu với cua đồng ngọt bát canh )
Các Thầy Cô giáo cũng sống như chúng tôi, các Thầy độc thân cũng ăn ở bếp tập thể. Nhưng chúng tôi thương nhất Thầy hiệu trưởng - Thầy lên sơ tán một mình. Vợ thầy là cô Lễ, người nhỏ nhắn gầy gò, công tác ở Bộ Tài chính thì đưa các con đi sơ tán cùng cơ quan bộ. Vì vậy Thầy dành toàn bộ thời gian, công sức, tâm can lo cho trường, cho sinh viên, đứng mũi chịu sào cho cuộc sống, học tập của hàng ngàn người.
Có thể nói, cuộc sống 4 năm sơ tán của gần 800 sinh viên khóa I + II chúng tôi cả khó khăn, thuận lợi, sức khỏe, học hành đều không tách rời sự chăm lo của nhà trường và nhất là của Thầy hiệu trưởng kính yêu. Nhiều lúc tôi tự hỏi, từ đâu mà Người Thầy tóc bạc, gày gò lại có đủ sức lực, bản lĩnh lo cho mọi việc mà vẫn giữ được nụ cười và sự ấm áp đó, để sẵn sàng khoác ba lô lên đường, từ giã công việc ở Bộ, từ giã Thủ đô, nhận nhiệm vụ mới khó khăn vất vả, chăm sóc cả tinh thần và vật chất cho lũ chúng tôi. Phải chăng đó là bản lĩnh của người chiến sỹ của người Đảng viên..
Ấntượngthứ Ba - LạiđượclàhọctròcủaThầy.
Tấm bằng Đỏ - tốt nghiệp loại ưu - của tác giả có chữ ký của Thầy Hiệu trưởng Đỗ Trọng Kim.
Ra trường, tấm bằng tốt nghiệp có chữ ký sống của Thầy Đỗ Trọng Kim, ngày 01/01/1970 là một lưu niệm đẹp đẽ.
Tôi về công tác ở Ngân hàng Kiến thiết, chi nhánh Hà Nội rồi một năm sau về Ngân hàng Kiến thiết Trung ương . Và tôi không ngờ một lần nữa lại được “là học trò của Thầy Kim theo một cách khác”. Đó là khi đọc những văn bản chế độ có chữ ký của Thầy, tôi mới được biết trước khi là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Tài chính - Thầy là Giám đốc (Tổng Giám đốc) đời thứ 2 (sau bác Trịnh Huy Quang) của Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1958 -1962). Tôi nhìn chữ ký chân phương, nhẹ nhàng, rắn rỏi của Thầy trên các văn bản còn lưu hành mà như được gặp lại Thầy. Tôi lại được nghe các cô chú cán bộ cũ kể về Thầy với những điều kính trọng, quý mến. Đọc các văn bản chỉ đạo, quy chế, nghiệp vụ… mà Thầy ký ban hành thời đó, tôi bỗng thấy như mình lại là học trò của thầy Đỗ Trọng Kim, thầy Thái Văn Hòa (nguyên Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam và lúc đó là chủ nhiệm khoa Tài chính của trường Thầy Nguyễn Văn Đạt đã lên lớp giảng dạy tôi suốt mấy năm. Tôi cũng gặp lại cô Lễ (vợ Thầy) cùng công tác ở bộ. Rồi 5 năm sau, tôi được cùng công tác với anh Đỗ Trọng Khải - con trai lớn của Thầy. Anh về vụ Tài vụ Ngoại thương của Bộ Tài chính, tính điềm đạm, nhẹ nhàng. Tôi và anh Khải thân nhau, cùng công tác Đoàn và có chung một tình cảm, quan tâm hay kể những câu chuyện về Thầy Đỗ Trọng Kim.
Hình ảnh Thầy Đỗ Trọng Kim được BIDV trang trọng đặt trong phòng truyến thống của Ngân hàng như một lời nhắc nhở về niềm tự hào, về đạo lý uống nước nhớ nguồn của các thế hệ cán bộ BIDV.
50 năm sau, trong lễ kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tôi lại được gặp anh Đỗ Trọng Hưng (con trai thứ hai của Thầy). Chúng tôi trò chuyện về Người Thầy đã khuất xa và tôi rất tự hào nói với Hưng rằng: “Chị được là học trò của Ba em đấy !”
Chung mộtthờithanhxuân - Chung một Người Thầy.
60 năm trôi qua - Thầy Đỗ Trọng Kim đã rời xa cõi tạm từ lâu. Các thế hệ sinh viên Trường Tài chính trưởng thành, có mặt trên mọi miền đất nước… ở nhiều cương vị khác nhau… Chúng tôi nghĩ hơn hai ngàn sinh viên 6 khóa đầu tiên mà tôi cùng học, gặp gỡ, hợp tác trong quá trình công tác sau này. Các Anh Chị trưởng thành trên mọi vị trí cương vị trong hệ thống tài chính, kế toán, ngân hàng của các Bộ, các doanh nghiệp… là minh chứng cho kết quả trồng người của trường, của các Thầy Cô giáo thời đó và nhất là tâm huyết của Thầy Đỗ Trọng Kim. Đặc biệt, gần 200 sinh viên khóa I, II lên đường về miền Nam sau Tết Mậu Thân, dũng cảm, kiên cường trên mọi mặt trận tài chính từ chiến khu R đến các tỉnh sau giải phóng đã thực hiện được lời Thầy nhắc nhở năm xưa. Để sau này, có dịp hội ngộ trong dịp hội khóa, hội trường… chúng tôi đều rưng rưng, nhắc về một thuở về những người Thầy kính mến. Đến nay, lớp sinh viên thuở ấy đã ở độ tuổi U80, U90, U100 và chỉ còn chừng 1/3… nhưng chúng tôi nghĩ, từ thuở thanh xuân bước vào Trường Tài chính… đến thời trung niên gắn bó với ngành, đến thời nghỉ hưu… dường như chúng tôi vẫn là những học trò của Thầy.
Và tôi nghĩ: Chúng tôi cùng các bạn sinh viên trường Đại học Tài chính các thế hệ sau, có chung một Người Thầy, Người Hiệu trưởng đầu tiên, đặt nền móng cho Trường Đại học Tài chính. Chúng tôi cùng các đàn anh, đàn chị, đàn em là cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (mà tiền thân là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam) có chung một Người Thầy, Người thủ trưởng tiền bối của Ngành là Thầy Đỗ Trọng Kim - Tổng Giám đốc thứ 2 của Ngân hàng Kiến thiết năm 1958 - 1962 và ký ức chung đó là mạch nguồn gắn kết chúng tôi với các bạn.
Bài viết này như một hồi ức thanh xuân tặng các bạn đồng niên, như một nén nhang tưởng nhớ người Thầy kính mến. Hồi ức lộn xộn, xen lẫn nhớ quên của người già… nhưng lại là thanh xuân của chúng tôi.
Xin chép lại một bài bích báo thuở ấy về một thời sơ tán không quên:
á
Nếu
Nếu tôi là họa sỹ Tôi sẽ vẽ bức tranh Vẽ Lãng Công tươi đẹp Như hoa giữa rừng xanh Núi cao… cao chót vót Suối chảy… chảy lượn quanh Mây trôi ngang đỉnh núi Sương mù phủ long lanh Vẽ đàn bò béo mượt Đang gặm cỏ hiền lành Vẽ nương ngô, khoai, sắn Tươi mơn mởn màu xanh… Nếu tôi là thi sỹ Tôi sẽ viết bài thơ Ca ngợi lòng dũng cảm Và niềm tin vô bờ Của những người Thầy giáo Đang đem hết sức mình Với tấm lòng nhân hậu Vun trồng những mầm xanh Ca ngợi các bạn trẻ Sức sống tuổi 20 Với cánh tay mạnh mẽ Dâng tình yêu cho đời Ca ngợi cuộc sống mới Sao giản dị bình thường Nhưng chứa chan hạnh phúc Và đằm thắm tình thương… Nếu tôi là nghệ sỹ Tôi sẽ hát bài ca Rừng xanh lui… lui mãi Lời ca bay… bay xa…